Hiển thị các bài đăng có nhãn Cộng đồng Kiến. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Cộng đồng Kiến. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 3 tháng 4, 2011

Nhân đọc bức thư Gs. Nguyễn Đình Cống

     VietBamboo's Blog - Dưới đây là bài viết mình Ctrl+C và Ctrl +V từ diễn đàn ketcau.com xin cùng được chia sẻ vs anh em, có thể quan điểm của mỗi người về bài viết này là hoàn toàn khác nhau nhưng dưới góc độ của người công dân, người hoạt động trong nghề thì việc lựa chọn con đường sắp tới cho mỗi cá nhân nên suy ngẫm đôi chút!

   " Kính thưa GS.Nguyễn Đình Cống
    Thưa toàn thể các anh em trong và ngoài ngành xd!
Sáng nay em có được nghe qua về bài viết của GS trên TV, em dù không được trực tiếp học thầy nhưng qua những gì thầy đã đóng góp cho ngành xây dựng và nền giáo dục của nước nhà cũng đủ để em khâm phục và tôn trọng thầy vô cùng, tuy nhiên từ bài viết của thầy em cũng xin phép có một vài lời tâm sự với các anh em trong ngành xd- đặc biết là các ae trên diễn đàn:
- Về tính đúng đắn của bài viết này thì có lẽ chúng ta không cần phải bàn cãi, cá nhân em xin đồng tình 100% luôn- xin cảm ơn thầy đã nói ra những điều mà...trời biết, đất biết,..ông đạp xích lô biết, bà bán quán nước cũng biết...nhưng chả có ai nói ra làm gì cho...mệt xác
-Em xin kể cho các bác một câu chuyện vui trong ngành xây dựng như sau, nghe xong đảm bảo các bác sẽ thấy điều này...ở quanh ta chả có gì lạ cả: Chuyện là ở thành phố tôi đang sống ngành xây dựng đang phát triển vô cùng là ì ạch, bao nhiêu công trình thì các đồng nghiệp tốt bụng trên HN vì có năng lực cao hơn nên đã thiết kế hộ hết rồi( thật là vui biết bao...) vì sao thế nhỉ??? Có phải chúng tôi không có những người bạn trẻ có năng lực và nhiệt huyết để học hỏi làm những công trình lớn không..?Chắc chắn là không rồi-em có biết rất nhiều bác được đào tạo rất cơ bản, ham học hỏi tìm tòi sáng tạo nhưng chắc chắn học cho vui là chính thôi, vì có ai tạo điều kiện cho làm đâu cơ chứ. Em có một cậu bạn học cũng rất khá, thi cơ học kết cấu toàn quốc cũng được đến giải nhì, sau khi ra trường muốn xin vào viện thiết kế của thành phố làm việc thì được một người quen trong viện bật mí: Chú vào đấy cũng không khó khăn gì, tuy nhiên ở đây con cô x, cháu chú y sắp ra trường, việc ngon sẽ về tay chúng nó hết cả- bất cần biết năng lực chú mày thế nào, chắc là suốt đời sẽ được nghiên cứu mấy cái nhà dân cao phải đến...3 tầng chứ không thấp hơn đâu kekeke...!
+ Lại về chuyện các xếp đi học: ở đây vừa mới tổ chức một khoá học rất hoanh tráng cho những người làm kết cấu trong thành phố, một sếp to gần nhất trong ngành thiết kế ở thành phố đi học, buổi đầu vào học, bác này đến muộn có gần..2 tiếng, vừa mới vào lớp xồng xộc đến bắt tay thầy giáo cười nói rất là tự nhiện mặc cho các đồng chí trẻ tuổi ham học ngồi dưới cứ trố mắt ra mà nhìn...kể từ đó bác ta không còn đến lớp học nữa mà chỉ cử mấy đệ tử đi điểm danh hộ(í quên: bác này là tiến sĩ đấy- bác cực giàu và cực giỏi, quan hệ tốt vô cùng, là một người có tên tuổi trong ngành kết cấu của thành phố, mặc dù các vấn đề như: đông đất, gió động, kết cấu liên hợp, kết cấu ứng lực trước... bác ấy có cần biết đâu- vấn đề này em biết vì bác ấy được mời tham gia hỏi tốt nghiệp mấy thằng bạn em). À quên! sau khi lớp học ấy kết thúc thì bác ấy đạt lọi giỏi, trong khi bọn em đây học trật mặt, thi trật mặt thì chỉ được bằng khá thôi các bạn ạ...hoá ra những người có thế lực đi học thích thật đấy.
+ Ở nơi em học nhé, những sinh viên chiu khó tìm tòi những kết cấu mới và khó để làm là sinh viên được đánh giá là " Đã dốt còn tinh tướng". Ví dụ như thằng bạn em đây: làm đồ án tốt nghiệp có tính gió động, động đất, cọc khoan nhồi...khi làm xong thầy hướng dẫn cũng chả biết mình tính cái gì(Có lẽ thầy bận quá không thể quan tâm tới sinh viện được- tội nghiệp thầy quá đi mất)- Mất công nó lên trang kết cấu học hỏi, rồi xin vao một công ty TVTK làm thêm cả năm trời để có kiến thức làm đồ án cho tốt, thầy phê "Tính toán về cơ bản là tốt, tuy nhiên nhiều chỗ chế bản còn...xấu"- bù vào đó là một cậu bạn khác là cháu ông trưởng phòng kiểm định của viện, làm đồ án gì mà chạy cái dao động sai bét nhè, nhà hình vuông mà tính khung phẳng theo tc cũ( mặc dù lúc đó là năm 2007 rồi), thế mà chấm đồ án được 10 nhé, tuy nhiên trong quá trình bảo vệ vì củ chuối quá nên các thầy bảo" chắc nó mất bình tĩnh, cho...9 thôi" , vui không hả các bác. Thế mà cậu ấy bây giờ vào viện nghiên cứu rồi, chả trách những công trình lớn thành phố em không tính được nên đành nhờ các đồng nghiệp tốt bụng trên HN tính gìum vậy!!!
- Thôi em trở về với chủ đề cũ đây kẻo các bác hoa hết cả mắt, em chỉ nói vậy cho vui thế thôi chứ em sẽ cố gắng lên đây để nâng cao kiến thức rồi xin vào mấy công ty muốn tiếp nhận những người trẻ tuổi, không có thế lực gì như em, có lẽ sẽ tốt thôi!!!
- Mà sao những vấn đề như vậy mà phải cần đến các GS nói nhỉ, các bác cứ ra quán nước ở đầu ngõ cũng đầy, chỉ có điều chả có ai thèm quan tâm đâu, vì nó còn đem lại lợi ích cho nhiều người mà, những bạn trẻ ra nước ngoài học rồi không muốn về không phải vì không yêu nước đâu, họ sợ chạy...mất dép í mà, nếu là em thì em cũng..thế 
- Nói vậy thôi chứ em lạc quan lắm, một ngày nào đó sẽ có những người trẻ tuổi được làm vào những vị trí quan trọng, trong đó hi vọng sẽ có...những người như bọn mình đây chẳng hạn. Những người trẻ tuổi chúng ta hãy cố lên, em cũng phải lên HN xin việc đây, hy vọng được gạp lại các bác ở các công trình đẹp và hoành tráng của VN!!!
P/S: Em viết bài này để giải trí thôi, các bác đọc cho vui thôi chứ đừng nói với ai nhé, kẻo...chết em"

Thứ Sáu, 1 tháng 10, 2010

Nhà ống phố cổ và tài hoa người Hà Nội


   Với diện tích thường chỉ 30 - 50 m2, ngang hẹp, chạy dài, nhưng với sự khéo léo, tinh tế, người Hà Nội xưa bố trí nhà của mình có đủ phòng chức năng, gác lửng, sân...


   Theo kiến trúc sư Hoàng Đạo Kính, hình dáng đặc trưng của nhà Hà Nội ở các phố cổ là hình ống. Những căn nhà Hà Nội xưa có mặt tiền khoảng 3 - 5 m, sâu chừng chục mét, chia làm hai dãy, chiều cao thường là tầng rưỡi hoặc đôi khi hai tầng, quay ra mặt phố. Cá biệt cũng có những ngôi nhà cổ như số 47 Hàng Bạc, mặt tiền tới 7m, chiều dài chia ba lớp nối nhau.


Hình ảnh
Mặt tiền một ngôi nhà cổ Hà Nội.

  Người Hà Nội đã bố cục khéo léo hệ thống các phòng, gác lửng, sân trong đáp ứng nhu cầu đa dạng của cuộc sống. Nhờ thế mà tuy không lớn nhưng mỗi ngôi nhà cổ Hà Nội vẫn có diện tích dành làm nơi bán hàng, làm hàng, nơi thờ cúng, tiếp khách, nơi ngủ, hóng mát… Không gian ngôi nhà ống là một không gian kiến trúc gần như thống nhất do đó, dù chật hẹp mà không khí vẫn lưu thông, ngôi nhà vẫn có nơi để “thở”.


  Những ngôi nhà cổ được lợp hai lớp ngói không liền mái, ở giữa là những bức tường xây gạch giật cấp, ngăn cách với những ngôi nhà bên cạnh. Đặc biệt, vật liệu trát tường không phải vôi vữa mà là vôi trộn với cát và mật mía, mỗi lớp cao hai tầng, mái dốc lợp ngói vảy rồng. Dầm, dui, mè… làm bằng gỗ lim, dổi, vàng tâm với những tấm ván dài.


Hình ảnh



   Thời gian trôi qua cùng với những biến thiên cuộc sống, đến nay, cơ cấu một nhà ống và một gia đình ở phố cổ hầu như không còn. Nhiều gia đình, thậm chí cả chục gia đình trú ngụ trong một ngôi nhà ống, làm cho điều kiện sinh sống trở nên bức bối. Giữ gìn nhà ống cổ truyền, một sáng tạo của kiến trúc Hà Nội nghìn xưa, trở thành bài toán khó bề giải đáp.

   Cũng theo kiến trúc sư Hoàng Đạo Kính, gần đây, người ta bàn nhiều về giá trị và sự cần thiết bảo tồn khu phố cổ, thậm chí còn đưa ra những quy chế quản lý và dự án bảo tồn. Song, có lẽ, khu phố cổ Hà Nội vẫn chưa được nghiên cứu toàn diện và sâu sắc. “Khu phố cổ Hà Nội là một cơ thể đô thị già nua với vô số căn bệnh và mâu thuẫn. Cải tạo khu phố này phải hành động tế nhị, thận trọng như nhà phẫu thuật. Cần tránh những giải pháp thô thiển, cực đoan, duy ý trí. Cái rìu, cái xe ủi hoàn toàn không phù hợp trong trường hợp này”, ông Kính nói.

Văn Miếu Quốc Tử Giám và lối kiến trúc Phương Đông

    Văn Miếu Quốc Tử Giám là quần thể di tích nằm ở phía Nam kinh thành Thăng Long thời nhà Lý, xưa thuộc thôn Minh Giám, tổng Hữu Nghiêm, huyện Thọ Xương; thời Pháp thuộc làng Thịnh Hào, tổng Yên Hạ, huyện Hoàng Long, tỉnh Hà Đông (nay thuộc thành phố Hà Nội). Bốn mặt đều là phố, cổng chính là phố Quốc Tử Giám (phía Nam), phía Bắc là phố Nguyễn Thái Học, phía Tây là phố Tôn Đức Thắng, phía Đông là phố Văn Miếu. Quần thể kiến trúc này nằm trên diện tích 54331m2 bao gồm: hồ Văn, khu Văn Miếu - Quốc Tử Giám và vườn Giám mà kiến trúc chủ thể là Văn Miếu nơi thờ Khổng Tử và Quốc Tử Giám, trường học cao cấp đầu tiên của Việt Nam.

Tổng thể: 


Hình ảnh

   Khu di tích Văn Miếu Quốc Tử Giám dường như khá quen thuộc với những ai đang sống và làm việc ở Hà Nội. Hầu như ai trong số chúng ta, khi đặt chân tới thủ đô Hà Nội sẽ chọn Văn Miếu Quốc Tử Giám là một trong những nơi đặt chân đầu tiên. 

   Văn Miếu ngày nay là khu đất hình chữ nhật, chia ra 5 khu. Khu thứ nhất bắt đầu với cổng chính Văn Miếu Môn. Chân cửa có đôi rồng đá mang phong cách Lê sơ (thế kỷ XV). Khu thứ hai bắt đầu với cửa Đại Trung Môn, hai bên có hai cổng nhỏ mang tên Thành Đức và Đạt Tài. Ở hai khu này có đường thần đạo đi giữa vườn cây và bốn thửa ao vuông. Tiếp đến khu thứ ba bắt đầu với Khuê Văn Các (gác sao Khuê, sao chủ đề văn học) xây dựng đầu thế kỷ XIX. Hai bên gác cũng có hai cổng nhỏ mang tên Bỉ Văn (văn đẹp đẽ) và Súc Văn (văn hàm súc). Ở giữa khu này có một hồ vuông gọi là Thiên Quang Tỉnh (giếng trời trong sáng) có tường bao. 


   Hai bên hồ là hai khu vườn bia dựng các tấm bia ghi tên những người đỗ tiến sĩ. Hiện nay có 82 tấm bia của 82 khoa thi, xưa nhất là bia ghi về khoa thi năm 1442 và gần nhất là khoa thi năm 1779. Qua cửa Đại Thành tới khu thứ tư, một cái sân gạch trải rộng hai bên có hai dãy nhà tả vu và hữu vu. Cuối sân là nhà Đại Bái và Hậu Cung có kiến trúc đẹp, hoành tráng, nơi thờ ông tổ đạo Nho: Khổng Tử và các học trò nổi tiếng của ông… Tại đây còn có một số hiện vật quý như quả chuông đúc năm 1768, bốn nghiên đá có chữ Thái học nghiễn đường, một tấm khánh niên đại thế kỷ XIX và rất nhiều hoành phi, câu đối giàu giá trị văn học và triết lý. Khu thứ năm là đất trường Quốc tử giám thời Lê. Sang đời Nguyễn, sau khi trường Giám dời vào Huế, khu này trở thành điện Khải Thánh, thờ song thân Khổng Tử. 
Hình ảnh


   Khu Văn Miếu Quốc Tử Giám xưa bao gồm cả hồ đằng trước cổng. Hiện nay, hồ bị cắt dời khỏi khu quần thể di tích Văn Miếu bởi phố Văn Miếu. Nguyên nhân là do vào đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp đã quy hoạch và xây dựng lại thành phố Hà Nội. Họ đã mở đường cắt ngang khu Văn Miếu để giao thông thuận tiện hơn.

Hình ảnh

   Quần thể Văn Miếu Quốc Tử Giám không chỉ mang đặc trưng của lối kiến trúc Phương Đông mà còn mang đậm dấu ấn văn hoá Việt Nam. Văn Miếu Quốc Tử Giám luôn được xây một cách đối xứng, cân đối hài hoà giữa các khu và ở trong từng khu. Sự cân đối hài hoà ấy không chỉ thể hiện ở mặt thẩm mỹ, ở công năng sử dụng mà phải hài hoà về mặt âm dương. Theo quan niệm của phương Đông, một công trình kiến trúc tồn tại lâu dài thì yếu tố về cân bằng Âm dương và Ngũ hành phải đạt đến mức độ chuẩn mực.


   Khi các yếu tố về Âm dương và Ngũ hành cân bằng – tức là tính thẩm mỹ, tính hài hòa và cân đối cao – thì tự bản thân công trình sẽ có tác động tích cực đến ý thức con người, khiến người ta trân trọng và có ý nghĩ bảo tồn nó. Không chỉ ở Văn Miếu mà ở rất nhiều những đền chùa miếu mạo xưa đều được xây dựng theo bố cục đối xứng trong toàn bộ tổng thể qua trục chính để tạo cân bằng cho công trình.

   Khu Văn Miếu Quốc Tử Giám được xây dựng dựa trên sự hài hoà về thiên nhiên và con người. Khu chính của quần thể được lấy làm trung tâm, phía trước mặt có hồ nước, phía sau dựa vào núi. Điều này ta cũng thấy rất rõ ở nhiều chùa hay những ngôi nhà Bắc Bộ xưa, phía trước nhà hay chùa luôn có một chiếc ao nhỏ như để hứng lấy ánh sáng của trời đất. Ở chùa thường có thêm những hòn non bộ để tạo nên sự cân đối hài hoà giữa con người và vũ trụ.

Hình ảnh


   Nổi bật ở khu quần thể này là Khuê Văn Các- một công trình kiến trúc độc đáo được xây dựng năm 1805 (triều Nguyễn), gồm 2 tầng, 8 mái, tầng dưới là bốn trụ gạch, tầng trên là kiến trúc gỗ, bốn mặt đều có cửa sổ tròn với những con tiện tỏa ra bốn phía tượng trưng cho hình ảnh sao Khuê tỏa sáng. Hai bên (phải và trái) Khuê Văn là hai cổng Bí Văn và Súc Văn. Khuê Văn Các thường là nơi tổ chức bình các bài văn thơ hay của các sĩ tử. Ngày nay, Khuê Văn Các còn được lấy làm biểu tượng của thủ đô Hà Nội.


Hình ảnh


Điêu khắc trang trí

Rồng:


   Đối với các nước phương Đông, con rồng là kiệt tác sáng tạo nghệ thuật có lịch sử lâu đời. Trên thực tế, rồng chỉ là sản phẩm của nghệ thuật, vì nó không tồn tại trong thế giới tự nhiên mà là sự sáng tạo nghệ thuật siêu tự nhiên. Cùng với sự phát triển của lịch sử, từ lâu các nước phương Đông hình thành nên quan niệm phổ biến về con rồng, tổng hợp trong con vật linh thiêng này là trí tuệ, tín ngưỡng, niềm tin, lý tưởng, nguyện vọng, sức mạnh.

Hình ảnh

Trang trí những nơi linh thiêng bằng những linh vật dường như đã thành một quy chuẩn trong bất cứ công trình kiến trúc lớn nào của nhân loại. Ở phương Đông nói chung, Việt Nam nói riêng, con rồng thể hiện cho tâm linh, gắn liền với vua và là biểu hiện ước mong mưa thuận gió hoà trong dân gian. 

   Ở Văn Miếu, các kiểu tượng đá hình rồng cũng được bày trí ở các bậc cửa ra vào. Các dạng trang trí hình rồng phát triển theo từng thời kỳ và mang những đặc điểm mỹ thuật khác nhau. Phía ngoài cổng có đôi rồng đá cách điệu thời Lê và bên trong có đôi rồng đá thời Nguyễn.

Rùa: 


   Rùa làm đế bia còn thể hiện nghệ thuật khắc đá tinh xảo, công phu trong đường nét. Trên mặt bia có các dây hoa lá quanh diềm bia theo đường ngoằn ngoèo liên tục không đứt quãng, chen hình hoa cúc, hoa sen, hình bánh xe, đồng tiền. Rùa tượng trưng cho sự trường tồn và bất diệt. Hình ảnh rùa đội bia đá, trên bia đá ghi lại sử sách của dân tộc Việt Nam chứng tỏ rùa là loài vật chuyển tải thông tin và văn hóa.

Hình ảnh


   Trong một số ngôi chùa thời Lý – Trần, rùa được chạm thành tường bằng đá làm bệ đội bia. Dáng rùa đầu to, mập, vươn ra khỏi mai, mõm thuôn nhọn, mắt nhỏ, bốn chân khép sát vào thân mai. 82 tấm bia đã ghi tên tiến sĩ đỗ đạt được đặt trên lưng rùa, một con vật biểu hiện sự trường tồn, hiện còn lưu giữ tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám, Hà Nội là bằng chứng hùng hồn biểu hiện nền văn hiến bất diệt của dân tộc Việt Nam.

Hình ảnh

Hoa văn: 

   Văn Miếu được xây dựng và tu sửa trong vòng 3 thế kỷ (từ 1484 - 1780) nên những hoa văn trang trí cũng được điêu khắc một cách tinh xảo và điêu luyện hơn. Trong Văn Miếu Quốc Tử Giám là cả một công trình điêu khắc, một tác phẩm nghệ thuật trọn vẹn bởi nghệ thuật điêu khắc chữ trên đá, điêu khắc các linh vật như rùa, rồng...
 
   Bên cạnh đó, những hình hoa văn trang trí, chạm khắc trên gỗ ở các gian nhà là một nét độc đáo, thể hiện văn hoá của dân tộc Việt. Kiến trúc cổ truyền với những hoa văn họa tiết đặc sắc được chạm khắc trên chất liệu gỗ đã phản ánh lịch sử và nét văn hoá qua mỗi thời kỳ, không gian của tổng thể di tích đã làm cho kiến trúc tôn giáo này không chỉ đặc sắc mà còn gợi mở về những ngôi nhà xưa của đồng bằng Bắc Bộ. 

   Người Việt xưa luôn thích sự dàn trải trong không gian kiến trúc, vì thế dẫn tới xu hướng phát triển chiều rộng mà không vươn tới chiều cao đó cũng là cách gửi gắm những khát vọng của những cư dân trồng lúa nước xưa kia. Hoa văn trên kiến trúc, đôi khi chỉ là những nét chấm phá rất mộc mạc nhưng cũng rất hình tượng.

Vật liệu

  Gỗ: Kiến trúc cổ Việt Nam luôn lấy gỗ làm vật liệu xây dựng cơ bản và tạo đặc trưng riêng cho nền kiến trúc của mình. Đặc biệt, các khu nhà thuộc tổng thể Văn Miếu Quốc Tử Giám hầu hết được dựng nên bằng gỗ lim với các cột, kèo, xà... Những cột bằng gỗ lim làm cho công trình thêm chắc chắn và ổn định hơn.


Hình ảnh


   Ngói lợp mái truyền thống của Việt Nam là ngói mũi hài, còn gọi là ngói vẩy rồng. Ngói mũi hài mang đậm nét nghệ thuật của các triều Lê, Nguyễn. Kết hợp giữa ngói và triền mái cong cong kiểu Trung Hoa tạo nên sự thanh thoát, lấy cảm hứng từ mũi thuyền của nền văn hoá sông nước.

Hình ảnh


   Gạch: Có thể nói, kiến trúc Văn Miếu - Quốc Tử Giám là một khu di tích đặc biệt của thủ đô Hà Nội, được bao quanh bởi những viên gạch vồ cỡ lớn. Sân của các khu nhà lại được lát bằng gạch bát truyền thống. Tổng thể công trình ẩn hiện dưới những vòm cây toát lên một không khí thâm nghiêm cổ kính và rất đỗi huyền bí.

Hình ảnh


   Đá: Đá được dùng để điêu khắc các con vật như rùa, rồng hay các bậc thềm đi vào các khu nhà trong di tích Văn Miếu. Đá cũng là loại vật liệu không thể thiếu trong kiến trúc cổ. Ở Việt Nam còn có rất nhiều các công trình dùng đá làm vật liệu chính như Thành nhà Hồ (Thanh Hoá), Chùa Phát Diệm (Ninh Bình)...

Hình ảnh

   Giá trị thẩm mỹ của kiến trúc Văn Miếu - Quốc Tử Giám không chỉ được tạo bởi không gian kiến trúc đột phá nhưng lại hòa quyện với không gian xung quanh nó mà hơn nữa là sự kết hợp hài hòa giữa đạo và đời, là thành phẩm của công trình kiến trúc vĩnh cửu trước thời gian.

Cầu Long Biên, nhịp nối thời gian



  Với bất kỳ cây cầu nào ở Việt Nam đều có những nét dấu ấn riêng và vẻ đẹp riêng của nó. Tuy nhiên, bài viết muốn nói đến một cây cầu thép đầu tiên của Hà Nội, cây cầu đã chứng kiến bao thăng trầm của lịch sử và là nhịp nối sự sống của đôi bờ hơn 100 năm qua - cầu Long Biên, Hà Nội.


Hình ảnh
Hình ảnh


  Hơn 100 năm trước, vào tháng 9/1898, toàn quyền Đông Dương đã làm lễ khởi công một cây cầu vắt ngang dòng sông Mẹ. Cầu được đặt tên là Paul Doumer, người Hà Nội vẫn gọi là cầu Long Biên hay cầu sông Cái. Cầu Long Biên được thiết kế bởi kiến trúc sư Gustave Eiffe, cha đẻ của tháp Eiffel, biểu tượng nước Pháp. Thay cho những công nhân Trung Quốc được tuyển trước đó, bằng sự khéo léo, tinh nhanh, năng động, chính những người thợ Việt Nam đã lắp ráp các cấu kiện kim khí, tán đinh chốt, sử dụng cần cẩu... dưới sự hướng dẫn của các kỹ sư người Pháp. 


Hình ảnh
Hình ảnh


  Vị trí được chọn để xây cầu đúng ngay vị trí mà chiếc tàu của Pháp nổ súng bắn vào Ô Quan Chưởng và Cửa Bắc trước đó. Cầu gồm 20 bệ trụ xây và mố, với chiều sâu 30m và cao 13,5m tính mức nước thấp nhất. Phía hữu ngạn có cầu vòm dài 800m, toàn thân cầu là 2.500m. Chiều dài toàn cầu 1.862 m, gồm 19 nhịp dầm thép và đường dẫn xây bằng đá. Nét độc đáo nhất của cây cầu là đường bộ hai bên, đường sắt ở giữa lối đi bên trái. Tháng 2/1902, việc xây dựng cầu đã hoàn tất, cũng là nối liền con đường Hà Nội, Hải Phòng và đặt khúc đường sắt đầu tiên của tuyến đường xuyên Đông Dương. 


Hình ảnh



Hình ảnh


  Cầu Long Biên đã từng là cây cầu dài thứ hai trên thế giới - được mệnh danh là tháp Eiffel nằm ngang của Hà Nội - chỉ sau cầu Brooklyn bắc qua sông East-River của Mỹ. Đây còn là công trình kiến trúc sắt thép duy nhất và đồ sộ nhất ở Đông Nam Á thời bấy giờ. Cầu không chỉ là ký ức của bao thế hệ người Hà Nội mà còn là chứng tích của lịch sử đau thương và anh hùng Việt Nam. Hai sự kiện nổi bật trong thế kỷ XX của dân tộc Việt Nam là cuộc kháng chiến chống Pháp năm 1954, trả lại quyền độc lập cho dân tộc Việt Nam. Tiếp đến là những năm tháng chiến tranh ác liệt chống Mỹ, tuy chịu nhiều bom đạn nhưng cầu Long Biên vẫn đứng vững đến ngày hôm nay.


Hình ảnh


   Ngoài kiến trúc và lối thiết kế bằng sắt thép khá ấn tượng, cầu Long Biên còn được biết đến với ý nghĩa, đó cũng là một trong những cây cầu mang tính nhân bản ở Việt Nam. Cây cầu được thiết kế và xây dựng dựa trên yếu tố con người, vì con người, phục vụ cho cuộc sống và nhu cầu hằng ngày của con người. Cây cầu gồm có đường sắt đơn chạy ở giữa, hai bên là đường dành cho xe cơ giới và đường đi bộ. Đường cho các loại xe rộng 2,6m và luồng đi bộ rộng 0,4m. Thời xưa, trên cầu Long Biên còn có cả ghế đá dành cho những người đi bộ, họ thong dong và ngắm cảnh sông Hồng mỗi khi hoàng hôn buông xuống. Một chiếc cầu có tất cả các phần đường dành cho người đi bộ, đi xe cơ giới và tàu. Chính vì vậy, cây cầu dài này đã trở thành một phần đáng nhớ trong tâm thức mỗi người dân sống ở Hà Nội mà không phải cây cầu nào cũng có được. 


Hình ảnh


   Đã từng có người viết nên những câu thơ nhẹ nhàng, giản dị mà sâu lắng về cây cầu lịch sử này: 
“Hà Nội có cầu Long Biên
Vừa dài vừa rộng bắc trên sông Hồng
Tàu xe đi lại thong dong
Người người tấp nập gánh gồng ngược xuôi...”.
   Hiền lành và chở che, với những giá trị của quá khứ lắng đọng trên từng nhịp, cầu Long Biên đã, đang và sẽ mãi là biểu tượng; là niềm tự hào của người dân Hà Nội nói riêng và người dân Việt Nam nói chung.

Chợ Đồng Xuân, nét văn hóa Tràng An


  Khi nhắc tới Hà Nội, du khách sẽ nhớ đến Đồng Xuân - một chợ ra đời và gắn liền quá trình phát triển thương mại của đất Thăng Long. Nơi đây không đơn thuần là điểm giao thương mà còn có giá trị văn hóa, tinh thần phản ánh cuộc sống sinh hoạt của người dân Hà Nội xưa.

  Khi người Pháp xây dựng cầu Long Biên thì buôn bán phát triển nhanh do có vị trí đắc địa về đường bộ, đường thủy và đường sắt. Năm này qua năm khác, chợ Đồng Xuân ngày càng phát triển trở thành điểm thăm thú của người dân Hà thành và người nơi khác đến Hà Nội. Từ khi ra đời, chợ Đồng Xuân đã trở thành trung tâm buôn bán sầm uất bậc nhất ở Hà Nội.

Hình ảnh

  Chợ Đồng Xuân nằm trong khu phố cổ, phía tây là phố Đồng Xuân, phía bắc là phố Hàng Khoai, phía nam là phố Cầu Đông, phía đông là ngõ chợ Đồng Xuân. Cổng chợ nhìn sang phía tây, phía trước là một khoảng trống nhỏ. Phía Bắc có quán Huyền Thiên (sau đổi thành chùa Huyền Thiên). Ngay sát sau chợ là chợ Bắc Qua. ở góc Tây Bắc của chợ có đài Cảm tử, kỉ niệm ngày Toàn quốc kháng chiến.

  Năm 1890 chính quyền Pháp mới bắt đầu xây dựng chợ Đồng Xuân. Chợ được thiết kế tương đối đơn giản: Các bộ khung bằng sắt, lợp tôn mái chảy, diện tích khoảng 6500 m2 . Toàn bộ gồm 5 dãy nhà và được phân theo các vòm cuốn mặt trước, bên trong phân cách bởi các đường đi giữa các vòm (mỗi vòm chợ dài 52m, khung thép cao 19m, rộng 25m). Mặt tiền theo kiến trúc Pháp, gồm năm phần hình tam giác có trổ lỗ như tổ ong, lợp mái tôn.

  Do nằm ở vị trí thuận lợi là gần bến sông và trung tâm đầu mối của các mặt hàng nông sản, gần khu phố cổ với các mặt hàng thủ công truyền thống nên sau khi xây dựng xong, chợ trở thành một điểm buôn bán sầm uất và thu hút sự chú ý của giới thương nhân nước ngoài. Trong thời gian này, chợ là nơi đặt văn phòng thương mại của một số thương nhân người Pháp, Ấn, Việt. Không bao lâu, chợ Đồng Xuân phát triển mạnh thành đầu mối giao dịch hàng hoá lớn của Hà Nội và chiếm vị trí chỉ đạo các hoạt động kinh tế của thành phố Hà Nội và chi phối cả khu vực miền Bắc khi đó.

  Năm 1947, chợ Đồng Xuân là một trong những căn cứ kháng chiến chống thực dân Pháp của Hà Nội. Chợ Đồng Xuân hơn 100 năm sau đã được xây lại, xong được ít lâu thì ngày 14/07/1994 lại bị hoả hoạn lớn do chập điện, phải làm lại lần nữa, chợ vẫn còn lưu giữ những nét căn bản của hình dáng cũ.


  Năm 1995, chợ Đồng Xuân lại được cải tạo một lần nữa với số vốn đầu tư lên đến 68 tỉ đồng. Chợ được xây dựng thành 3 tầng với tổng diện tích mặt bằng xây dựng là 28.968m2, tổng diện tích kinh doanh là 22.245m2. Riêng tầng 1 vẫn mang hình hài vóc dáng cũ của chợ xưa, nhưng đầu hồi bên trái có gắn thêm bức phù điêu bằng đồng mô tả cuộc chiến đấu anh dũng của quân dân Đồng Xuân trong thời kháng chiến chống Pháp.

Hình ảnh

  Chợ Đồng Xuân hiện nay cao ba tầng, kích thước rộng 73,5m, dài 130,5m, có khu giao dịch, bán hàng, phần chợ Bắc Qua xây mới trên móng cũ có gia cố cẩn thận, bảo tồn mặt tiền chợ Đồng Xuân cũ, nhiều cầu thang, lối đi thoáng đãng với ba lối vào phía trước, 3 lối vào phía sau, 2 lối vào phía hông (có cầu thang bê tông), 2 cầu thang ngoài trời lên chợ Đồng Xuân - Bắc Qua, 5 cầu thang lên các tầng trên và một hệ thống thang máy hiện đại. Giữa hai chợ Đồng Xuân và Bắc Qua có lối thông thương bằng cầu thang, cầu nối, có dải phân cách phòng cháy chữa cháy, đường ô tô xung quanh toàn khu chợ. Có khu tắm gội, vệ sinh ở các tầng, có mái hứng gió, bể chứa nước to xây ngầm, các cột cứu hoả, trụ cứu hoả, hệ thống phun nước tự động khi cháy, nhiều cửa từ chợ ra đường phố.

Hình ảnh

  Hiện nay không chỉ những người mua bán hàng hoá tìm đến chợ Đồng Xuân để giao thương, nhiều khách du lịch trong và ngoài nước khi đi du lịch ở Hà Nội thường đến thăm quan và mua sắm ở chợ Đồng Xuân. Khu chợ nằm ngay trong khu phố cổ, không xa các phố nổi tiếng bán đồ lưu niệm, hàng thời trang, như phố Hàng Ngang, Hàng Đào, Hàng Bông, Hàng Gai…Lại gần khu di tích Đền Ngọc Sơn… rất tiện cho một chuyến thăm quan ở khu trung tâm thành phố.

Hình ảnh

  Không chỉ là nơi buôn bán huyên náo, nhộn nhịp nhất Hà Thành, chợ Đồng Xuân còn chứa đựng nhiều giá trị văn hóa, tinh thần phản ánh cuộc sống, sinh hoạt của người dân kẻ Chợ xưa và cũng là điểm đến không thể thiếu của mỗi du khách khi dừng chân ở Hà Nội. Hay nói như nhà văn Băng Sơn: “Ai có dịp về Hà Nội, nếu chưa đi chợ Đồng Xuân thì coi như mới biết một phần nhỏ, một góc bé, hoặc chưa đến Hà Nội”.

Nhà thờ lớn Hà Nội


  Nếu như chùa Trấn Quốc, chùa Một Cột được xem là dấu ấn của kiến trúc Phật Giáo, đậm chất Á Đông thì Nhà thờ lớn Hà Nội được xem là nhà thờ mang đậm dấu ấn của kiến trúc và nền văn minh châu Âu.

  Nhìn vào lịch sử của một công trình kiến trúc bất kỳ, chúng ta có thể dễ dàng luận về văn hoá, văn minh của thời kỳ đó. Nếu như thời nhà Lý, với sự phát triển mạnh mẽ của đạo Phật, các chùa chiền được xây dựng khắp nơi trên đất nước Việt Nam. Đến thời Nguyễn thì đạo Thiên Chúa phát triển rộng rãi. Đặc biệt là từ khi người Pháp sang Việt Nam, họ đã để lại dấu ấn nền văn minh của mình ở xứ sở thuộc địa bằng cách xây rất nhiều các nhà thờ. Công trình kiến trúc tiêu biểu thời đó chính là Nhà thờ lớn Hà Nội.


Hình ảnh
Nhà thờ lớn Hà Nội (còn gọi là Nhà thờ Saint Joseph) được xây dựng từ cuối thế kỷ XIX, được mô phỏng kiểu kiến trúc Nhà thờ Đức Bà Paris của Pháp. Đây có thể xem là một trong những công trình kiến trúc nổi bật của đạo Thiên chúa giáo, là sự giao thoa văn hoá giữa Phật giáo và Thiên chúa giáo, giữa phương Đông và phương Tây. Nhà thờ hiện nay nằm trên khu đất rộng ở số 40 phố Nhà Chung, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.

Hình ảnh
Cũng như rất nhiều nhà thờ khác ở Việt Nam, nhà thờ lớn Hà Nội đã được bản địa hoá bằng các chi tiết chạm trổ, sơn son thếp vàng mang đậm nét văn hoá dân gian Việt Nam. Vật liệu xây dựng chính của nhà thờ là gạch đất nung, tường trát bằng giấy bồi. Tuy nhiên, về phần kết cấu thì vẫn được xây theo lối kiến trúc Gôtich trung cổ, nhưng không được tỉ mỉ và chi tiết như các nhà thờ châu Âu, đặc biệt là ở Pháp.

Hình ảnh


Hình ảnh


Nhà thờ do chính Giám mục Puginier tự tay vẽ kiểu và chỉ huy thi công xây dựng. Đây là một nhà thờ tiêu biểu cho lối kiến trúc Gotich với những mái vòm uốn cong, rộng, hướng lên bầu trời. Phong cách này được phát triển mạnh mẽ nhất ở châu Âu vào khoảng thể kỷ XII. Kiến trúc Gôtích được xem là một bước tiến vượt bậc, là đỉnh cao khoa học kỹ thuật xây dựng đương thời. Nhà thờ lớn Hà Nội mang đặc trưng rõ nét nhất của kiến trúc Gôtích đó là tường được xây cao, mái vòm và có nhiều cửa sổ.


Hình ảnh


Phía trong sảnh nhà thờ có một cửa đi lớn, giữa là hai lối cửa nhỏ ở hai bên tháp. Các cửa ra vào và cửa sổ đều cuốn nhọn, kết hợp với các cửa là những bức tranh Thánh bằng kính màu rất đẹp và hài hoà tạo ra nguồn ánh sáng tự nhiên bên trong lòng nhà thờ. Khu cung thánh được trang trí theo nghệ thuật dân gian truyền thống, chạm trổ hoa văn bằng gỗ rất tinh vi và độc đáo. Ở tòa gian chính có tượng thánh Giuse bằng đất nung cao hơn 2m.

Hình ảnh


Nhà thờ còn có một bộ chuông Tây, gồm bốn quả chuông nhỏ và một quả chuông boòng lớn, trị giá 20.000 franc Pháp thời đó. Đặc biệt là chiếc đồng hồ lớn gắn giữa mặt tiền nhà thờ. Đồng hồ có báo khắc, báo giờ, hệ thống chuông báo được liên kết với 5 quả chuông treo trên hai tháp. Trung tâm quảng trường phía trước nhà thờ có đài Đức Mẹ được làm bằng kim loại, xung quanh nhà thờ có đường kiệu, bồn hoa, phía sau có hang đá.
Hình ảnh

Hình ảnh

Thời gian trôi qua, người dân Hà thành đã quen thuộc và chấp nhận hình ảnh của nhà thờ lớn như một biểu tượng văn hoá mới. Sẽ là thiếu sót nếu không nói tới những ảnh hưởng của văn hoá Pháp thể hiện trong văn hoá của Hà Nội hôm nay, cũng như không thể bỏ qua những khu biệt thự Pháp cổ khi nói về kiến trúc thủ đô. Nằm trong dòng chảy ấy, nhà thờ lớn nay đã trở thành một phần không thể tách rời của Hà Nội. Nơi đây đã trở thành địa chỉ quen thuộc không chỉ của những con chiên ngoan đạo mà còn của mọi tầng lớp dân cư Hà thành.

Tháp Rùa, biểu tượng Hà Nội


Từ lâu, tháp Rùa đã thuộc về một phần tâm hồn của người Hà Nội. Hình ảnh Tháp Rùa luôn bình dị, cổ kính mà rất đỗi thiêng liêng, gắn liền với tâm thức của những người con đất Việt..
Hình ảnh

Theo dân gian truyền lại, Tháp Rùa được xây trên gò Rùa nơi xưa vua Lê Thánh Tông đã dựng Điếu Đài ở đó để câu cá. Sau khi Pháp hạ thành Hà Nội năm 1883 thì dân vùng ven hồ xiêu tán cả. Các quan Việt cũng bỏ sở nhiệm. Riêng có Nguyễn Ngọc Kim chức dịch làng Tự Tháp được cử làm trung gian giữa quân Pháp và người Việt, lại được chính quyền mới tín nhiệm nên ít lâu trở thành bá hộ, tục gọi là Bá hộ Kim.
Năm 1886 thấy huyệt đất trên gò Rùa hợp phong thủy ông xuất tiền xây tháp trên gò với ý định chôn hài cốt của cha vào đó. Việc không thành nhưng ngọn tháp ba tầng vẫn được hoàn tất. Vì vậy nên ban đầu Tháp này có tên là Tháp Bá hộ Kim. Vì vị trí đẹp giữa hồ, Tháp Rùa đã trở thành một hình ảnh đẹp, một biểu tượng mang vẻ đẹp văn hoá của Hà Thành.

Hình ảnh

Nếu như Hồ Gươm được ví như lẵng hoa tươi giữa lòng Hà Nội, trong lẵng hoa ấy nổi bật một đoá sắc màu đẹp nhất, gây ấn tượng nhất - Tháp Rùa. Tháp Rùa đẹp bởi đó là ngọn tháp được thiết kế kết hợp giữa phong cách kiến trúc châu Âu với hàng cửa cuốn gô-tích hai tầng dưới nhưng phần mái cong giữ quy thức kiến trúc Việt Nam. Tháp Rùa đẹp còn bởi nó được đặt ở vị trí hài hoà giữa cảnh quan của môi trường xung quanh với thời gian và con người tạo nên vẻ đẹp cổ kính và hết mực thiêng liêng.

Hình ảnh


Ngôi tháp được xây dựng trên một gò đất rộng khoảng 350m2, theo hình vuông có 3 tầng, tầng dưới xây rộng hơn, rồi thu nhỏ dần lên tầng trên, các mặt phía đông và tây có 3 cửa cuốn. Phía nam và bắc có 2 cửa cuốn nhọn ở đầu. Đỉnh 2 tầng có lan can chạy xung quanh. Bốn đầu đao đắp uốn cong dần lên vào giữa đỉnh, trên đỉnh có hình ngôi sao 5 cánh.

Hình ảnh

Tầng một xây trên móng cao 0,8m. Tầng này do là hình chữ nhật nên chiều dài mở ra ba cửa, còn chiều ngang mở ra hai cửa, tất cả là 10 cửa, đỉnh nhọn như cửa các nhà thờ Thiên chúa giáo. Bên trong tầng này phân ra ba gian, các gian thông với nhau bằng các cửa ngăn, đỉnh cũng nhọn như tất cả các cửa khác. Cả tầng có 4 cửa ngăn, tổng cộng 14 cửa.


Tầng hai xây lùi vào một chút, chiều dài 4,8m, chiều rộng 3,64m, cũng chia ra ba gian, kiến trúc y như tầng một với 14 bộ cửa nhưng nhỏ hơn. Tầng ba thu nhỏ hơn nữa, dài 2,97m, rộng 1,9m, chỉ mở một cửa hình tròn ở mặt phía Đông, đường kính 0,68m. Sát tường phía Tây có một ban thờ, không rõ thờ ai và có từ lúc nào. Tầng đỉnh chỉ như một vọng lâu, vuông vức, mỗi bề 2m. Trên tường mặt phía Đông, bên trên cửa tròn của tầng ba có ba chữ Quy Sơn Tháp, nghĩa là Tháp Núi Rùa. Như vậy, từ nền đất Gò Rùa lên đến đỉnh tháp là 8,8m.

Hình ảnh

Với sự giao thoa giữa hai lối kiến trúc là kiến trúc Pháp và kiến trúc bản địa tạo nên nét đẹp độc đáo, riêng biệt của Tháp Rùa. Điều quan trọng nhất là Tháp Rùa đã, đang tồn tại không chỉ là hiện hữu mà còn là tinh thần của người dân Hà Nội nói riêng và của đất nước Việt Nam nói chung.

Cột cờ Hà Nội



   Người dân Thủ đô quen gọi là Cột cờ Hà Nội – Nhưng kỳ thực cột cờ đã xuất hiện cách đây 200 năm (1805 – 1812) khi vua Minh Mạng triều Nguyễn cho phục dựng lại Hoàng thành Thăng Long.

   Với bao biến thiên của lịch sử, Thăng Long thành về sau chỉ còn là “Dấu xưa xe ngựa hồn thu thảo” - Nền cũ lâu đài bóng tịch dương” mà nỗi lòng ngậm ngùi của thi nhân Huyện Thanh Quan đã tức cảnh thành thơ, riêng Kỳ đài thì vẫn tồn tại nguyên vẹn với thời gian…
Hình ảnh

   Cột cờ Hà Nội do kiến trúc sư Đặng Công Chất đốc công xây dựng theo thiết kế đã được phê duyệt của triều đình nhà Nguyễn lúc bấy giờ, là một khối hình vuông ba cấp hợp thành từ đế chân trụ đến than cột và Lầu Vọng Cảnh với tổng chiều cao là 60m. 

   Chân trụ toạ lạc trên diện tích 2007m2, mỗi chiều rộng 45, tạo thành 3 tầng thu hẹp dần về phía trên. Từ tầng thứ nhất lên tầng 2, và tầng 2 lên tầng 3 đều theo đường dẫn tam cấp 18 bậc ở hai cửa Đông – Tây. Riêng tầng 3 có đủ bốn cửa mở ra bốn hướng. Bên trên tầng ba là thân cột cờ hình bát giác, mỗi cạnh rộng 2,13m vút cao, thẳng đứng lên, trên mỗi cạnh có 5 cửa sổ hình hoa thị, bên trên có một cửa sổ hình rẻ quạt. Thân cột cờ tạo thành hình khối rỗng được chiếu sang từ những ô cửa sổ và được xây cầu thang xoắn ốc với 54 bậc. 
Hình ảnh

   Trên cùng là một căn lầu hình tám cạnh theo than cột – cao 3,3 m, mỗi cạnh đều có cửa thong thoáng để quan sát tầm xa về bốn phương, tám hướng. Đó chính là Lầu Vọng Cạnh. Trên chóp Lầu Vọng Cảnh là một trụ lỗ hình tròn, đường kính 40cm để cắm cờ. Trong thời kỳ thực dân Pháp chiếm đóng, họ sử dụng nơi này để đặt trạm thông tin vô tuyến điện. Khi Thủ đô phòng thủ chống chiến tranh phá hoại bằng không quân của Mỹ, nơi đây trở thành Đài quan sát phòng không Hà Nội, có thể quan sát toàn bộ nội ngoại thành và xa hơn.
Hình ảnh

   Với kiến trúc ấy thời bấy giờ, cột cờ có chiều cao lớn nhất kinh thành Thăng Long. Quan sát từ mọi góc nhìn, cột cờ là một khối hoàn chỉnh kiến trúc nghệ thuật hài hoà, uy nghi, hoành tráng cổ kính. Là nơi biểu biểu tượng cho chủ quyền quốc gia, thể hiện ý chí vươn lên với tinh thần bất khuất đối với các thế lực xâm lược từ ngoại bang của dân tộc. 
Hình ảnh

   Cột cờ Hà Nội nay đã trở thành một di tích lịch sử gắn kết với thời đại – trong quần thể Hoàng thành của Thăng Long – Hà Nội sắp bước vào 1000 năm tuổi - năm 2010 – mà trong đó, ngày Giải phóng Thủ đô 10/10/1954 là một mốc vàng son lịch sử trong thời đại Hồ Chí Minh rực rỡ huy hoàng.

Chùa Một Cột và dấu ấn kiến trúc Việt



   Chùa Một Cột có tên là Diên Hựu (phúc lành dài lâu), được xây dựng vào thời vua Lý Thái Tông (1049). Chùa Một Cột được xem là một trong những công trình kiến trúc sáng tạo và độc đáo nhất Việt Nam.



   Theo sử sách, chùa được xây lần thứ nhất năm 1049: "Mùa đông tháng 10 dựng chùa Diên Hựu. Trước đây, vua chiêm bao thấy Phật Quan Âm ngồi trên toà sen, dắt vua lên toà. Khi tỉnh dậy vua nói với bề tôi, có người cho là điềm không lành. Có nhà sư Thiền Tuệ khuyên vua làm chùa, dựng cột đá ở giữa đất, làm toà sen của phật Quan Âm như đã thấy ở trong mộng. Cho các nhà sư đi xung quanh tụng kinh cầu nhà vua sống lâu. Vì thế gọi là chùa Diên Hựu (phúc lành dài lâu). Năm 1070 mùa xuân tháng giêng năm Thần Võ thứ 2, vua viết chữ Phật dài 1 trượng 6 thước khắc vào phiến đá".


Hình ảnh



   Năm 1105, vua Lý Nhân Tông cho mở rộng kiến trúc khu chùa có thêm hồ Linh Chiểu. Về sau, quy mô chùa Một Cột chỉ còn lại ngôi chùa nhỏ trên cột đá như hình ảnh hiện nay. Thực dân Pháp trước khi rút khỏi Hà Nội đã cho nổ mìn phá chùa. Tuy nhiên, chùa đã được trùng tu cơ bản như trước. Chùa Một Cột hiện nay bao gồm đài Liên Hoa hình vuông, chiều dài mỗi cạnh 3 m, mái cong, dựng trên cột cao 4 m (không kể phần chìm dưới đất), đường kính 1,20 m có cột đá là 2 khúc chồng lên nhau thành một khối. Tầng trên của cột là hệ thống những đòn gỗ làm giá đỡ cho ngôi đài ở trên. 


   Chùa Một Cột (Liên Hoa Đài) được tạo hình bởi một trụ đá gồm 2 khối, gắn rất khéo, thoạt nhìn như một khối đá liền. Tầng trên là một khung gỗ kiên cố đỡ ngôi đài với mái ngói, bốn góc uốn cong, trên có hình lưỡng long triều nguyệt. Sự độc đáo của kiến trúc chùa Một Cột là toàn bộ ngôi chùa được đặt trên một cột đá. 


Hình ảnh




   Bố cục kiến trúc, trang trí có sự kết hợp táo bạo của trí tưởng tượng lãng mạn đầy thi vị qua hình tượng hoa sen và những giải pháp hoàn hảo về kết cấu kiến trúc gỗ bằng hệ thống móng giằng; đặc biệt là sử dụng các cột chống chéo lớn từ cột đến sàn, vừa tạo thế vững chắc, vừa mang lại hiệu quả thẩm mỹ như đường lượn của cánh sen, thiết lập sự hài hoà giữa mái và sàn bởi một đối xứng ảo. Cùng với ao hình vuông phía dưới có thể là biểu tượng cho đất (trời tròn, đất vuông), ngôi chùa như vươn lên cái ý niệm cao cả: Lòng nhân ái soi tỏ thế gian. Khối kiến trúc gỗ đá được phù trợ bởi cảnh quan, có ao, có cây cối đã tạo nên sự gần gũi, tinh khiết mà vẫn thanh lịch. Cảm giác thanh cao của kiến trúc như chia sẻ, hoà đồng với trời nước và màu xanh của cây lá khiến con người rũ sạch ưu phiền, đạt tới sự trong sáng của tâm hồn.


Hình ảnh




   Chùa Một Cột hiện nay nằm trong khu vực Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chùa hiện nay nhỏ hơn so với nguyên mẫu để ghi nhớ lại nơi đây đã từng có một công trình kiến trúc độc đáo. Chùa Một Cột có kết cấu bằng gỗ, trong chùa đặt tượng Phật bà Quan Âm để thờ. Lối đi lên chùa là một cầu thang nhỏ làm bằng gạch. Trên cửa Phật đài có biển đề "Liên Hoa Đài" (Đài hoa sen) ghi nhớ sự tích nằm mộng của vua Lý dẫn tới việc xây chùa.


Hình ảnh




   Chùa Một Cột là công trình sáng tạo kết hợp không gian kiến trúc có nhịp điệu cao thấp gồm điêu khắc đá, hội hoạ, chạm vẽ hành lang, mặt nước là biểu tượng văn hoá, nghệ thuật cao, tính dân tộc đậm nét. Lối kiến trúc "một cột" là nghệ thuật kiến trúc cổ truyền có từ trước đời Lý. Tại Hoa Lư (Ninh Bình) cũng có một ngôi chùa thờ con gái vua Đinh Tiên Hoàng. Chùa có một cây cột đá cao, sáu cạnh, khắc bài kinh Lăng Nghiêm, đề niên hiệu thời Lê Hoàn (981–1005). Phía trên cột là tòa sen chạm. Năm Long Thụy Thái Bình thứ năm đời Lý Thánh Tông (1058) có xây điện Linh Quang ở Thăng Long, phía trước điện dựng lầu chuông, một cột sáu cạnh hình bông sen...


Hình ảnh




   Một ngôi chùa tưởng như rất nhỏ bé mong manh, có lẽ cả thế giới chỉ Việt Nam mới có ngôi chùa kiến trúc siêu nhỏ như vậy nhưng giá trị văn hóa, lịch sử vô cùng to lớn, lại trường tồn cùng dân tộc. Một ngôi chùa giữa hồ nước chỉ đủ chỗ cho mấy bát hương, một pho tượng, không tường hào, không tháp chuông, không cổng tam quan nhưng vẫn uy nghiêm trong tâm linh dân tộc, là hình ảnh biểu trưng của thủ đô, vững vàng trong dòng thời gian bất tận.


Hoàng thành Hà Nội xưa và nay!

   Trong những bức ảnh cũ vào cuối thế kỷ 19, quần thể di tích lịch sử xưa là một công trình kiến trúc đồ sộ nằm trên vùng đất kinh kỳ quạnh quẽ, thưa vắng. 


    Ngày 1/8, Khu di tích trung tâm Hoàng thành Thăng Long của Việt Nam được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới. Dự kiến, Tổng giám đốc UNESCO sẽ tới Hà Nội vào 1/10 để dự kỷ niệm Đại lễ nghìn năm và trao giấy chứng nhận cho Hoàng Thành Thăng Long. VnExpress.net giới thiệu những hình ảnh tư liệu về quần thể di tích này, nằm trong bộ sưu tập Ký ức Hà Nội xưa của hai bố con nhà giáo Đoàn Thịnh và kiến trúc sư Đoàn Bắc. 
   Các bức ảnh được chụp vào khoảng cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, khi Pháp vào xâm chiếm nước ta. Trải qua cuộc nội chiến Trịnh - Nguyễn cùng sự tàn phá của thực dân, Hoàng thành trở nên xơ xác, tiêu điều. Vào thời nhà Nguyễn, kinh đô được dời vào Phú Xuân, Huế, quần thể di tích Hoàng thành xưa được gọi là Thành Hà Nội. 
Hình ảnh 

Đoan Môn - cửa chính đi vào Hoàng thành Thăng Long xưa. 

Hình ảnh 

Đoan Môn còn lại của ngày nay. 
Hình ảnh 

Cửa Bắc Hoàng thành xưa. 

Hình ảnh 

Cửa Bắc ngày nay. 

Hình ảnh 


Bắc Môn xưa và nay đều vẫn còn nguyên hai vết đại bác do quân Pháp bắn vào thành Hà Nội ngày 25/4/1882.



Hình ảnh 

Khung cảnh Hậu lâu - nơi ở của các cung tần mỹ nữ. 
Hình ảnh 

Một góc Hậu lâu còn lại đến nay. 

Hình ảnh 

Điện Kính thiên trong Hoàng thành. 

Hình ảnh 

Nền đất nơi từng tồn tại Điện Kính Thiên 

Hình ảnh 

Một góc thềm Điện Kính Thiên. 

Hình ảnh 

Rồng đá trên thiềm Điện Kính Thiên ngày nay. 

Hình ảnh 

Cột cờ xưa. 

Hình ảnh 

Cột cờ Hà Nội nay.